Bạn đang có nhu cầu muốn tham khảo những văn mẫu liên hệ bài Đồng Chí của Chính Hữu? Bạn muốn biết những thông tin có liên quan đến việc liên hệ bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu?Đọc ngay bài viết sau đây của trang web thcsmacdinhchi.edu.vn để biết chi tiết top 5 bài văn mẫu liên hệ bài Đồng Chí của Chính Hữu nhé.
Bài Đồng Chí liên hệ với bài nào?
Dưới đâu là một số gợi y cho câu hỏibaif Đồng Chí liên hệ với bài nào, bạn đọc tham khảo nhé:
Hình ảnh thơ về nguồn gốc của những người lính
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Cặp thơ này đưa ta đến tưởng nhớ những lời thơ đầy xúc động của Chế Lan Viên:
“Ôi, gió Lào ơi! Ngươi đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi ngươi”
Kết nạp Đảng trên quê mẹ – Chế Lan Viên
Họ là những người nông dân, mặc áo lính, xuất thân từ những vùng quê cảnh khác khó khăn, nơi thiếu thốn trái tim cay đắng.
Hơn nữa, tác giả còn sử dụng biểu đạt cổ điển như “Chó thích ăn đá, gà ưa sỏi.”
Hình ảnh thơ về cuộc gặp gỡ, sự thân thiết của những người lính
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Liên hệ đến bài thơ “Nhớ” của Nguyên Hồng:
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi Một hai”Nhớ – Hồng Nguyên
Nếu ở trên “anh” và “tôi” đứng riêng rẽ trong từng câu thơ, thì tại đây, “anh” và “tôi” đã đứng cùng nhau, sát bên. Điều này cho thấy tình cảm đoàn kết, sự gắn bó không gì có thể tách rời của những người lính.
Hình ảnh thơ về khó khăn, gian khổ của những người lính Cụ Hồ
‘Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ’
Sử dụng hình ảnh tương đồng trong thơ Tố Hữu:
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Việt Bắc – Tố Hữu
Thể hiện sự khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống của những người lính. Họ có lòng đồng cảm với nhau, bắt đầu từ đồng môn, sau đó là tình bạn, và cuối cùng là tình tri kỷ. Tất cả điều này thúc đẩy họ thành lập “tình đồng chí”.
Hình ảnh thơ về sự thấu hiểu các tâm tư tình cảm của nhau
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Hình ảnh giếng nước đa dụng cho người thân tại quê hương. Người lính ra đi với sự quyết tâm, nhưng không bao giờ quên người ở nhà, người ấy luôn nhớ về họ. Vì vậy, đây là một tình cảm hai chiều, người thân nhớ người lính và ngược lại.
Làm liên tưởng đến bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Nỗi lòng, tâm hồn của họ cũng giống như tôi. Họ là những người bạn đồng chí, họ thấu hiểu và chia sẻ mọi thứ với nhau.
Hình ảnh thơ về căn bệnh sốt rét rừng
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi”
Tương tự với cặp thơ trong Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
Tây Tiến – Quang Dũng
Với địa hình nguy hiểm và môi trường khắc nghiệt, Việt Bắc được biết đến như một nơi rừng rậm, đầy thử thách. Vì vậy, tất cả những người lính đều phải đối mặt với căn bệnh kỳ quái là sốt rét rừng, cơ thể bị run rẩy và đổ mồ hôi mặc cho việc đắp chăn. Điều này thể hiện sự khó khăn của cuộc sống của họ.
Hình ảnh thơ về sự thiếu thốn về đồ đạc
“Áo ảnh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Không chỉ phải đối mặt với bệnh tật, họ còn phải trải qua sự thiếu thốn
“Áo vải chân không đi lùng giặc tới”
Nhớ – Nguyên Hồng
Hay chính tác giả Chính Hữu cũng từng tâm sự trong bài thơ Ngày về:
“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”
Hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc
” Đêm nay rừng hoang sương muối ”
Cũng như trong miêu tả của Tố Hữu về Việt Bắc:
” Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng. ”
Việt Bắc – Tố Hữu
Thời tiết, thiên nhiên khắc nghiệt,” sương muối”là hiện tượng đặc trưng của nơi đây. Thế nhưng cái khắc nghiệt ấy lại làm nổi bật lên sự gắn kết, chung sức bền lòng của những người lính.
Bài văn mẫu liên hệ bài Đồng Chí của Chính Hữu số 1
Dưới đây là văn mẫu liên hệ bài Đồng Chí của Chính Hữu số 1 mà bạn có thể tham khảo. Đây là mẫu liên hệ bài thơ Đồng Chí với bài thơ Nhớ rừng và Việt Bắc:
Hình ảnh những người lính khi mới nhập ngũ, với vẻ lúng túng, rụt rè, và những lo âu khi xa gia đình và quê hương, được thể hiện một cách chân thực trên những bài thơ của Chính Hữu. Bất chấp tình trạng thiếu thốn và khó khăn, những người lính vẫn yêu thương và dành cho nhau những tình cảm chân thành, ấm áp, của tình đồng đội và đồng chí.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Những người lính trong thơ của Chính Hữu xuất phát từ nông dân áo vải. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau. Quê của anh nằm ở vùng đồng bằng, nơi nước biển mặn mòi, đất đai khá khó canh tác. Còn quê của tôi thuộc vùng trung du miền núi, đất đai đầy sỏi đá, trồng trọt không dễ dàng. Cuộc sống của chúng tôi gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn, nhưng đúng vì thế, chúng tôi có những điểm chung, và dễ dàng đồng cảm và hiểu nhau hơn.
Hình ảnh những người lính áo vải trong thơ Chính Hữu đưa tôi liên tưởng đến hoàn cảnh của người lính trong bài thơ của Chế Lan Viên:
“Ôi, gió Lào ơi! Ngươi đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi ngươi”
Bài thơ của Chính Hữu cho thấy rằng, dù từ các vùng quê khác nhau, nhưng những người lính đều mặc áo vải và đối diện với cuộc sống khó khăn và thiếu thốn.
Ngoài ra, tác giả sử dụng ngôn ngữ phổ thông và tạo ra một câu thành ngữ dân gian: “Chó thích ăn đá, gà ưa sỏi.”
Hình ảnh của sự gặp gỡ và thân thiết giữa những người lính được thể hiện qua câu thơ:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Câu này khiến tôi nhớ đến bài thơ “Nhớ” của Nguyên Hồng:
“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi Một hai”
Nếu ở trên, “anh” và “tôi” còn xa lạ và tỏ ra xa cách, thì ở đây, họ đã gặp gỡ và gắn kết lại gần nhau hơn. Điều này thể hiện tình cảm đoàn kết và gắn bó không thể chia cắt của những người lính.
Hình ảnh về sự khó khăn và vất vả của những người lính trong thời Cụ Hồ được thể hiện qua câu thơ:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Các đợt sốt rét rừng đã gieo rắc đau đớn và mệt mỏi trong cơ thể của những người lính, như một cuộc trừng phạt khắc nghiệt. Trong những bài thơ của Chính Hữu và nhiều nhà thơ cùng thời như Quang Dũng với Tây Tiến, Tố Hữu với Việt Bắc, bức tranh về những người lính đang chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt được vẽ nên một cách chân thực. Những đêm dày sương muối ở rừng hoang, cái lạnh không chỉ thấu vào da thịt mà còn đọa đến tận tâm hồn. May mắn thay, những người lính đã luôn bên nhau, san sẻ tình cảm và tình đồng chí ấm áp để cùng vượt qua cái lạnh giá của mùa đông và hoàn thành nhiệm vụ mục tiêu.
Những người bạn và đồng chí của Chính Hữu đã khắc sâu hình ảnh đẹp của những người lính trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp. Họ thể hiện vẻ đẹp chân thật, sức khỏe và tinh thần lạc quan của những người lính đến từ nông thôn. Độc giả ngày nay có thể tự hào về những người lính này, những con người đã góp phần làm nên một trang sử hào hùng của quá khứ.
Liên hệ bài thơ Đồng Chí với Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính sô 2
Dưới đây là mẫu liên hệ bài thơ Đồng Chí với Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính:
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình tượng người chiến sĩ cầm súng bảo vệ đất nước đang chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Đó không chỉ là biểu tượng nghệ thuật xuất sắc xuất hiện trong nhiều tác phẩm mà còn là tượng trưng tốt nhất của người Việt Nam thời kỳ của Hồ Chí Minh. Hầu hết các tác giả đã có mặt tại tuyến đầu của cuộc kháng chiến, để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sống động hiện thực của cuộc chiến đấu của người chiến sĩ. Hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm đầu đối đầu với Pháp và của những người chiến sĩ giải phóng miền Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ đã được thể hiện rất rõ qua các tác phẩm như “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác bởi nhà thơ Chính Hữu vào năm 1948, và được in trong tập “Đầu súng trăng treo”. Hình ảnh người nông dân cầm súng trong bài thơ này được miêu tả với vẻ đẹp mộc mạc và bình dị, nhưng cũng thể hiện sự lãng mạn và bay bổng. Đó là những người nông dân, người dân quê làng, có cuộc sống gắn liền với cánh đồng, trâu bò, và ruộng đất. Nhưng khi tiếng gọi của tổ quốc vang lên, họ tự nguyện bỏ lại quê hương để tham gia vào cuộc chiến đấu. Mặc dù phần lớn trong số họ chưa biết chữ, và họ phải học từng chữ một khi gia nhập quân đội, nhưng tình yêu quê hương và ý thức bảo vệ tự do cho dân tộc đã thúc đẩy họ hành động.
Tình đồng đội và đồng chí của những người lính cách mạng xuất phát từ đâu? Câu hỏi này được Chính Hữu giải đáp trong những dòng đầu của bài thơ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Cuộc đời của những người lính, vất vả và đầy gian khổ, từ việc cày ruộng cho đến lúc họ chiến đấu, đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Hình ảnh “biển mặn và đồng cỏ chua” và “đất cày phải gặp đá” được sử dụng để chỉ những vùng đất khó khăn, đất nông nghiệp cằn cỗi. Thông qua sự lặp lại trong cấu trúc của hai câu thơ này, tác giả muốn thể hiện sự tương đồng trong hoàn cảnh xuất thân của họ. Họ đều sinh ra và lớn lên trong những vùng quê nghèo khó, và điều này đã làm nên bản chất hồn nhiên, chất phác của họ.
Họ là những người nông dân làm việc chăm chỉ, lam lũ, và sống trong điều kiện khó khăn, và do đó, cách họ thể hiện tâm sự và giao tiếp với nhau luôn mang tính dân dã và mộc mạc, phản ánh bản chất của người nông dân. Từ khắp nơi trên đất nước, họ gặp nhau và cùng chia sẻ mục tiêu và lý tưởng chiến đấu, và những điều này đã đưa họ về bên nhau, tạo nên mối quan hệ bạn bè, đồng đội và đồng chí để cùng nhau trải qua những khó khăn và niềm vui của cuộc chiến đấu.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
Tri kỷ là tình bạn đặc biệt, là mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ giữa những người bạn thân thiết, người bạn đã cùng nhau trải qua những thời kỳ khó khăn và gian truân trong cuộc chiến đấu này. Hình ảnh “súng gần súng, đầu sát bên đầu” thể hiện sự đoàn kết và mục tiêu chung trong cuộc chiến đấu của họ, và họ đang đối mặt với một kẻ thù chung của toàn dân tộc. Những người lính yêu quý của chúng ta ra đi khi còn rất trẻ, mang trong lòng họ những ước mơ lớn lao và tình yêu mạnh mẽ đối với quê hương.
Họ sẵn sàng hy sinh trái tim và thể xác để bảo vệ đất nước và dân tộc. Tình yêu đối với quê hương và đất nước vượt xa hơn tất cả, khiến họ bỏ lại những công việc chưa hoàn thành, những lo âu và trăn trở của cuộc sống hàng ngày, để quyết tâm ra đi bảo vệ độc lập của dân tộc và quê hương. Hai từ “Đồng chí!” kết thúc phần thơ đặc biệt với dấu cảm, tạo điểm nhấn như một đỉnh, một điểm chốt, như một sự phát hiện, một lời xác nhận, một lời kêu gọi sâu sắc và xúc động từ trái tim, lưu lại trong tâm hồn của mọi người về hai từ mới mẻ và thiêng liêng ấy.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Với người nông dân, ruộng đồng và ngôi nhà là toàn bộ cuộc sống và ước mơ của họ. Họ luôn quan tâm, bảo vệ và chăm sóc những gì họ có. Nhưng những người lính đã bỏ lại tất cả để tham gia vào cuộc chiến tranh. Câu thơ “Gian nhà không mặt kệ gió lung lay” truyền tải rất sâu sắc và gợi cảm. Sự hy sinh để ra đi khiến cho cuộc sống của họ trống trải, nhưng họ không quan tâm và đứng đầu mọi khó khăn một cách quyết đoán. Trong tình thế này, hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một biểu tượng giàu ý nghĩa, đồng thời là một hình ảnh tượng trưng cho quê hương, gia đình và người thân ở quê hương luôn nhớ và ước mong được gặp lại người lính xa nhà. Câu thơ nói rằng quê hương nhớ người lính, nhưng thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ này hai chiều, càng ngày càng sâu sắc và không bao giờ dứt. Nhưng nó cũng là nguồn động viên mạnh mẽ, động viên họ vượt qua khó khăn và thử thách. Điều đó thể hiện tình yêu mạnh mẽ của họ đối với quê hương và dân tộc.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Ba câu thơ mô tả một đêm phục kích giặc trong một không gian u ám, hoang vắng và lạnh lẽo: “Rừng hoang, sương muối”. Không chỉ có cái gió và cái lạnh truyền vào họ, mà còn có nguy hiểm đang rình rập các chiến sĩ. Đặc biệt, trong cái thực tế khắc nghiệt đó, những người lính đang “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới,” nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau một cái nút bấm. Từ “đợi” ở đây đã thể hiện sự sẵn sàng, tự tin và quyết tâm chủ động trong cuộc chiến.
Giặc của họ. Và lúc đó, tầm vóc của những người chiến sĩ ấy càng trở nên lớn hơn.
Câu cuối cùng đưa ra một hình ảnh đẹp từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính. Trong đêm tối, mặt trăng trên bầu trời cao đã nhẹ nhàng tụt xuống, như một vòm trăng nằm trên đỉnh nòng súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ đợi giặc. Tình đoàn kết ấm áp và thiêng liêng đã mang lại cho người lính một nét lãng mạn, một cảm hứng như thơ trong cái thực tế khắc nghiệt qua hình ảnh “trăng treo trên nòng súng”. Trong môi trường khốc liệt, lạnh lẽo như đêm đông, rừng hoang vắng sương dày và cái chết đe dọa, tâm hồn của người chiến sĩ vẫn tìm thấy sự thi vị bay bổng trong vẻ đẹp đột ngột của vầng trăng.
Từ “treo” đã tạo nên một mối liên kết độc đáo, nối hai sự vật ở hai thế giới xa lạ – mặt đất và bầu trời, tạo ra những tưởng tượng thú vị và bất ngờ. “Súng” biểu trưng cho chiến đấu, “trăng” biểu trưng cho hòa bình. Súng và trăng, thực và hư, chiến sĩ và thi sĩ, tất cả cùng tồn tại để tôn vinh vẻ đẹp của tình đoàn kết giữa những đồng chí đang đứng bên nhau. Đúng như tình đoàn kết đó đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc sống vẫn đẹp, vẫn tràn đầy sự lãng mạn, tạo động lực cho họ trong chiến đấu và niềm tin vào chiến thắng. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ, giúp nâng cao giá trị của bài thơ và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Điều này cũng là minh chứng cho phong cách tả thực và lãng mạn của Chính Hữu.
Như vậy, tình đoàn kết trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người liên kết với nhau trong Cuộc chiến tranh đại đoàn kết của dân tộc. Tình cảm này được hình thành trên cơ sở của tình yêu quê hương, đất nước, và cùng mục tiêu chiến đấu. Cuộc chiến đấu khắc nghiệt đã thử thách và làm cho tình đoàn kết, sự đoàn kết của những người chiến sĩ ngày càng mạnh mẽ. Tình cảm thiêng liêng đó đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và thiếu thốn trong cuộc sống người lính, là nguồn động viên để đạt được chiến thắng huy hoàng cho dân tộc.
Nếu “Đồng chí” được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thì “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” xuất hiện vào năm 1969 – thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt của dân tộc ta đang diễn ra. Trong tác phẩm này, vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả Phạm Tiến Duật tái hiện thông qua sự kết hợp giữa hình ảnh chiếc xe không kính và người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bằng giọng điệu tự nhiên, hóm hỉnh và ngôn ngữ hàng ngày, nhà thơ đã đưa vào văn học Việt Nam hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính. Những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh thực, đơn giản, nhưng thể hiện một cách chân thành sự dũng cảm và lòng tự tin của người lính lái xe trong môi trường chiến trường.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Câu trúc câu thơ dưới hình thức câu hỏi, ba từ “không” liên tiếp nhau thể hiện cách nói ngây thơ, đầy chất lính, tác giả giải thích nguyên nhân xe không có kính là do bom giật, bom rung, đó là tình hình khốc liệt của cuộc chiến, nhưng sau mưa bom bão đạn, chiếc xe vẫn trở nên méo mó, biến dạng. Nét đẹp đầu tiên chúng ta thấy ở đó là tư thế tự tin, dũng cảm và tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của người lính:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ “ung dung” được đặt lên đầu câu kết hợp với từ “nhìn” được lặp lại ba lần, đã mô tả một tư thế thật đẹp của người lính, họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái khi cuộc sống và cái chết chỉ cách nhau một cái nút bấm. Cụm từ “tiến về phía trước” thể hiện tinh thần quyết tâm, không sợ hãi, không lùi bước của họ.
Không chỉ ở tư thế dũng cảm và tự tin, người lính còn đầy sự yêu đời, lãng mạn:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”
Những câu thơ nhanh, mạch lạc như bánh xe trên con đường, bằng cách sử dụng phép điệp ngữ “nhìn thấy” kết hợp với các động từ như “thổi qua, trải dài, sao trên bầu trời,” tác giả đã diễn tả cảm giác mạnh mẽ và đột ngột của người lính lái xe khi ngồi trong buồng lái, qua ô cửa kính vỡ trong tư thế “nhìn xuống đất, lên trời, và tiến về phía trước.” Người lính như cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt “con đường trải dài vào trái tim” là hình ảnh đặc biệt gợi lên tốc độ của chiếc xe trên con đường, cũng như con đường cách mạng, con đường chiến đấu giải phóng miền Nam, người lính chỉ quan tâm đến nhiệm vụ và không lo lắng trước khó khăn.
Chiếc xe không kính có thể gặp nhiều nguy hiểm, nhưng người lính vượt qua bằng tinh thần lạc quan, bất chấp mọi gian khổ.
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Thiên nhiên vẫn thể hiện sự mạnh mẽ qua những cơn gió, cơn mưa, nhưng với tinh thần đầy tự tin, họ đối mặt và vượt qua mọi khó khăn và gian khổ khi lái xe.
“Cứ như vậy thôi” – một cách tự nhiên và kiên định, họ biến những khó khăn thành thách thức thú vị với tinh thần hóm hỉnh “Chẳng cần thay đổi, cứ lái tiếp 100 cây số nữa”. Dù cuộc sống đầy gian truân, những người chiến sĩ vẫn chấp nhận nó và đùa giỡn với nó, thể hiện lòng dũng cảm như một phần tư duy của họ: “Chúng ta trông nhau với mặt đầy mỉa mai”. Mặc dù khó khăn nhưng trong mắt họ, chúng trở nên nhẹ nhàng, vì lòng dũng cảm đã trở thành bản chất của họ trong cuộc chiến đấu. Trong những thử thách và gian khổ, tình đồng đội của họ càng thêm sâu đậm và thiết thực.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Những dòng thơ này thể hiện tình đoàn kết của họ, họ gặp nhau từ những hoàn cảnh khó khăn, và từ đó, họ chia sẻ, trở thành bạn thân. Họ chào nhau với sự thân mật qua việc bắt tay qua cửa kính vỡ, đó là niềm vui và niềm tự hào sau mỗi chiến thắng.
Cuộc sống của những người lính trong bữa ăn và giấc ngủ được miêu tả qua hai hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc giữa đường xe chạy”. Dù tất cả đều tạm bợ nhưng cách họ nhìn nhận và tư duy rất độc đáo: “Chúng ta là gia đình”, họ coi nhau như anh em trong gia đình, và khi họ cùng nhau đối mặt với khó khăn, họ trở nên gắn kết hơn, sẵn sàng tiến lên và đối mặt với thử thách mới: “Và tiếp tục hành trình trong bầu trời.” Hình ảnh này ám chỉ tâm hồn lạc quan và niềm tin của họ.
Các câu thơ cuối cùng hoàn chỉnh bức chân dung của người lính lái xe bằng tấm lòng và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, và tình yêu nước mạnh mẽ của họ:
” Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim. ”
Mặc dù không có các tiện nghi như kính, đèn, hay mui xe, thậm chí xe còn bị xước, nhưng xe vẫn tiếp tục chạy vì mục tiêu phía miền Nam. Điều quan trọng không chỉ là các yếu tố vật lý, mà còn là tấm lòng đang sáng rực trong họ. Trái tim đại diện cho ý chí chiến đấu mạnh mẽ, trái tim của tình yêu nước mãnh liệt, và đó là điều quyết định chiến thắng, không chỉ về vũ khí mà còn về ý chí của con người.
Hai tác phẩm này đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn với những khía cạnh khác nhau. Chúng ta thấy tình đoàn kết, tinh thần chiến đấu và tình yêu nước trong họ, và cách họ vượt qua những khó khăn và gian khổ của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ. Cả hai tác phẩm đều sử dụng ngôn ngữ thường ngày và hình ảnh sinh động để truyền đạt thông điệp về những người lính anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến.
Tổng kết văn mẫu liên hệ bài Đồng Chí của Chính Hữu
Thông qua bài viết trên đây của trang web thcsmacdinhchi.edu.vn, hy vọng bạn đọc đã có thể biết được những bài văn mẫu liên hệ bài Đồng Chí của Chính Hữu. Bạn cảm thấy bài tham khảo này như thế nào? Chúc bạn luôn học tập tốt và hãy thường xuyên ghé thăm trang web THCS Mạc Đĩnh Chi để cập nhật thêm nhiều kiến thức mới nhé.
Discussion about this post